Có một thực tế là hầu hết, các sản phẩm nông phẩm của chúng ta đều đang xuất khẩu ở dạng thô (chiếm 90%). Và khoảng 80% lượng nông phẩm chưa xây dựng được thương hiệu, không có logo, nhãn mác. Nếu không cải thiện được vấn đề này, Việt Nam khó có thể bứt phá thành một nước dẫn đầu về xuất khẩu nông phẩm.
- 24-04-2018 Tăng cường kết nối cung cầu giúp nông phẩm Việt đỡ “bí” đầu ra
- 20-04-2018 Xuất khẩu nông sản 2018 khả năng cán mốc 40 tỉ USD
- 19-04-2018 Thị trường hàng hóa ngày 19/4: Vàng, dầu, nông phẩm nhất loạt “khởi nghĩa”
Bất an “cà phê pin” và hiến kế nhận biết cà phê thật “Giải cứu” nông sản bao giờ đến hồi kết? nông sản xuất khẩu ba tháng đầu năm thu 8,7 tỷ USD
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng kết quả sản xuất nông nghiệp trong năm 2017 và những tháng đầu năm 2018 đã đạt con số ấn tượng. Kim ngạch xuất khẩu nông phẩm trong quý I năm 2018 đạt gần 8,7 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước và đạt 21,4% mục tiêu của 2018.
Tuy nhiên, có một thực tiễn là hầu hết, các sản phẩm của chúng ta đều đang xuất khẩu ở dạng thô (chiếm 90%). Và khoảng 80% lượng nông phẩm chưa xây dựng được thương hiệu, không có logo, nhãn mác. Nếu không cải thiện được vấn đề này, Việt Nam khó có thể bứt phá thành một nước dẫn đầu về xuất khẩu nông sản.
PV Báo CAND đã có cuộc trò chuyện, bàn bạc với ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) về vấn đề xây dựng thương hiệu cho nông phẩm. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập cảng (Bộ công thương nghiệp) Trần Thanh Hải. |
Phóng viên:
Theo ông, hiện nay, thực trạng về thương hiệu các mặt hàng nông phẩm của chúng ta đang có những tồn tại gì?
|
Ông Trần Thanh Hải:
Nói về thương hiệu cho nông phẩm thì không phải chúng ta phủ nhận hết thay của các doanh nghiệp (DN). Nhưng câu chuyện xây dựng thương hiệu cho nông phẩm không phải ngày một ngày hai thực hiện được. nông sản có những đặc thù riêng, ngay cả trên thế giới chứ không riêng gì chúng ta.
Các bạn thấy đấy, thí dụ như Sri Lanka là một giang san nức danh về chè, nhưng tìm một thương hiệu nào đó về chè của Sri Lanka thì hầu như chơi tìm thấy. Hoặc như Brazil, giang sơn số một thế giới về cà phê, nhưng có thương hiệu nào của một DN cà phê không? Gần như không có. Nhưng nói đến Brazil là người ta nghĩ ngay đến cà phê hoặc bóng đá. Vậy thì phải chăng, xây dựng thương hiệu cho nông sản phải bắt nguồn từ xây dựng thương hiệu nhà nước. Việt Nam hiện đang là tổ quốc đứng thứ 2 trên thế giới về cà phê, thậm chí về dòng Robusta mình là số 1. Nhưng nói đến Brazil thì người ta nghĩ ngay đến cà phê, còn với Việt Nam thì chưa có được tác động như thế.
Hoặc Việt Nam bây giờ đang đứng số một thế giới về hồ tiêu và điều, đứng thứ ba về cao su, gạo cũng rưa rứa. Phải dìm rằng, thương hiệu mang tính nhà nước là điều mình còn chưa xây dựng được. Nhận thức về tên Việt Nam trên bản đồ cà phê còn rất hạn chế, rất ít người biết chúng ta là cường quốc về cà phê. Ngay cả thương hiệu vùng của chúng ta cũng chưa xây dựng được.
Chúng ta là người Việt Nam, sinh sống trong nước thì có thể biết Phú Quốc có nước mắm, Thái Nguyên có chè... nhưng đó chỉ là phạm vi trong nước. Còn với quốc tế, hầu như chúng ta chưa có một thương hiệu nào hoặc đã từng gây dựng được nhưng lại không biết phát huy như các nhà nước khác.
Một cấp độ xây dựng thương hiệu nữa cần nhắc đến là DN. Lấy thí dụ cà phê Trung Nguyên, chúng ta đều nhìn thấy sự cầm của họ. Nhưng cũng chỉ phổ quát ở trong nước. Còn ở nước ngoài, thương hiệu cà phê Việt Nam lại được rất ít người biết đến. Thương hiệu cà phê Trung Nguyên, họ cũng chỉ sinh sản tụ hợp vào nhóm cà phê hoà tan 3 trong 1 là chính. Nhưng loại cà phê này lại không phải là gu của các nước phương Tây. Nên lợi nhuận họ có thể có, nhưng hình ảnh thì chưa xây dựng được.
Ở một giác độ khác, Trung Nguyên cũng tạo lập thành Công Thương hiệu của một nhà bán buôn. Cách đây 20 năm, Trung Nguyên là thương hiệu nhượng quyền rất thành công. Đi đâu chúng ta cũng gặp quán cà phê Trung Nguyên. Đã có thời gian Đặng Lê Nguyên Vũ cũng đưa được cửa hàng cà phê Trung Nguyên ra nước ngoài. Ngay từ năm 2013, tôi đã được ngồi uống cà phê tại quán Trung Nguyên ở Singapore. Nhưng sau đó, có vẻ như Trung Nguyên không tiếp tục phát huy tiếp được.
Xây dựng thương hiệu cho nông sản không dễ. |
Phóng viên:
Vậy theo ông, có những khó khăn gì khi xây dựng thương hiệu cho nông sản?
|
Ông Trần Thanh Hải
: Nói về gạo, chúng ta cũng chỉ truyền bá được Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Nếu có thể thì chúng ta cũng quảng bá thêm được gạo nếp, gạo tám thơm... một vài tên chủng loại thay vì tên thương hiệu DN. Tôi nghĩ rằng, xây dựng thương hiệu cho nông sản không dễ. Không phải câu chuyện như điện thoại Samsung hay là tivi Sony... những sản phẩm công nghiệp gắn tên thương hiệu tương đối dễ dàng hơn. Bản thân nông phẩm được sinh sản trên diện tích rất rộng, khó có một DN nào đắp được. Bản thân ngay cả Trung Nguyên, cũng chỉ thu hẹp ở một vùng nào đó và sản lượng không cai trị được.
Nên theo tôi, xây dựng thương hiệu nông sản nên tập kết xây dựng thương hiệu nhà nước, sau đó là thương hiệu vùng. Chỉ cần nói đến Bordeaux, cả thế giới nghĩ đến rượu vang. Hay chỉ cần nói đến pizza, quờ chúng ta sẽ đều nghĩ đến nước Ý. Đây chính là một chứng dẫn thành công trong việc xây dựng thương hiệu vùng. Trong xây dựng thương hiệu thì cũng nên có sự phân biệt, nông phẩm khác với các sản phẩm công nghiệp.
bây chừ Bộ Công Thương đang ôm muốn làm dự thảo một Nghị định về xuất xứ nguồn cội sản phẩm. Với sản phẩm công nghiệp chúng ta hay gặp mực tàu “made in” hay “assembled in”. Nhưng sản phẩm nông sản sẽ đề là “product of”. ngụ ý nguyên liệu làm ra sản phẩm đó được nuôi trồng tại đâu. ví dụ trên một gói cà phê có ghi “product of Việt Nam”, nghĩa là cà phê đó được trồng tại Việt Nam. Còn có thể nó được chế biến tại Mỹ, tại Anh hay tại bất cứ nước nào. Đây cũng là một cách quảng bá sản phẩm rất tốt. Người ta có thể không quan tâm đến tên DN chế biến và đóng gói sản phẩm. Nhưng người ta sẽ biết cà phê này được trồng và thu hoạch tại Việt Nam.
Phóng viên: Làm thế nào để chúng ta tạo dựng được những thương hiệu vùng được cả thế giới biết đến? Từ trước đến nay, vấn đề này theo ông chúng ta đã đi đúng hướng hay chưa?
Ông Trần Thanh Hải: Việt Nam cũng đã phối hợp được với EU trong cụ quảng bá thương hiệu. Nhưng thực tiễn, bản thân cách truyền thông của chúng ta cũng chưa được rộng rãi. Chúng ta mời EU đánh giá và xác nhận cho mình được hai thương hiệu: Chè san tuyết Mộc Châu và nước mắm Phú Quốc. Về mặt ý nghĩa thì việc này rất tốt nhưng chưa đủ. Chúng ta chưa lăng – xê được đánh giá đó lên. Đó là điều rất đáng tiếc. Được EU công nhận cũng giống như hướng dẫn địa lý. Chúng ta mới làm được một nửa, chưa tận dụng được hình ảnh. Những thương hiệu chúng ta xây dựng được vẫn chưa vượt ra khỏi phạm vi tổ quốc để cạnh tranh với thế giới.
Phóng viên: Ông đã từng phát biểu rằng, xúc tiến thương nghiệp không chỉ là dạo mặt hàng mà chính là việc giữ gìn hình ảnh, chất lượng và uy tín sản phẩm. Thương hiệu mạnh nhờ chữ tín và cũng chính chữ tín làm nên giá trị thương hiệu. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng thương hiệu sản phẩm Việt Nam rất khó phát triển vì luôn gắn với hình ảnh không an toàn, không chuyên nghiệp và không uy tín. Ông đánh giá thế nào về nhận xét này?
Ông Trần Thanh Hải: Tôi cho rằng căn bản nhất là ý thức của người nông dân cũng như DN. Đối với người nông dân, là đối tượng trực tiếp sản xuất, chuyện ý thức thấp hay chưa đầy đủ là điều rất dễ hiểu. Vì chúng ta vẫn là một nước nông nghiệp sinh sản nhỏ lẻ và dân trí ở nhiều vùng còn còn thấp. Tiếp theo là tinh thần của DN. Nếu DN có tinh thần làm đúng thì sẽ không cho phép hoặc không hài lòng những sản phẩm chất lượng kém của người dân cày. Dần dần, người dân cày cũng sẽ không sinh sản những sản phẩm kém chất lượng thế nữa vì sẽ không ai mua cho họ.
Nhưng đáng buồn, thực trạng giờ thì có nhiều DN còn tiếp tay, thậm chí thi bằng lái xe máy a1 còn chỉ dẫn dân cày làm sai. Hoặc sau khi DN mua sản phẩm sạch của người nông dân về nhưng pha trộn thêm rất nhiều tạp chất hoặc các chất gây ảnh hưởng cho sức khỏe bán ra thị trường. Vụ cà phê pin vừa rồi là một điển hình.
Tôi cho rằng, ý thức của DN phải làm sao hơn hẳn tinh thần người dân. Bản thân đã làm DN là phải có trình độ, ý thức hơn những người khác. Người nông dân có thể cả đời không ra khỏi ngôi làng của mình. Nhưng đã là DN, lại là DN kinh doanh xuất khẩu thì việc nắm bắt về pháp luật cũng như xúc tiếp với các thông tin đề nghị về an toàn vệ sinh thực phẩm là thắt phải có. chẳng thể nói anh là DN mà anh lại không biết. Chỉ có anh cố tình làm ăn lận lận, chẳng thực, đưa ra những sản phẩm kém chất lượng, sản phẩm nhái giả. ví dụ người trồng rau phun thuốc tăng hay thuốc bảo vệ thực vật quá ngưỡng quy định cho phép.
DN cương quyết từ chối hoặc cảnh báo thì chắc chắn người nông dân sẽ không làm. Nhưng ngược lại có khi anh còn khuyến khích người ta làm như thế, cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần tăng cường giám sát, hoặc đưa ra những chế tài xử phạt mạnh hơn. Chúng ta cũng phải cầu mong rằng, sinh sản nông nghiệp diễn ra trên một khuôn khổ quá rộng quá dàn trải, nên cơ quan quản lý quốc gia khó kiểm soát hết được. Nên nói gì thì nói, quan trọng nhất vẫn là ý thức của DN và vai trò giám sát của cộng đồng, trong đó có báo chí.
Phóng viên: Tại sao sản phẩm của Việt Nam không tìm hướng xuất khẩu ở dạng đã thành phẩm mà phải xuất thô rồi chịu thiệt thòi khi bị “khoác áo” nước ngoài?
Ông Trần Thanh Hải: Rất khó để một DN có thể làm một sản phẩm theo khâu đầu – cuối, từ nuôi trồng đến chế biến và bán sản phẩm ra thị trường, bởi việc này đòi hỏi vốn rất lớn. Người nông dân có thể sở hữu cả chục hécta chè nhưng để chế biến được thì lại đòi hỏi dụng cụ, máy móc và nhân công. Và chỉ có các DN mới có thể đáp ứng được điều đó.
Nhìn rộng ra thế giới, ngay cả thương hiệu Nestle, họ cũng không đi trồng cà phê. Họ thu mua và chế biến thành một sản phẩm ngon, mang đi tiếp thị bán. Ở trên bình độ nhà nước thì mình có thể đáp ứng được sinh sản theo kiểu đầu – cuối như vậy nhưng ở một DN thì khó. Chúng ta nên kết liên, các doanh nghiệp cần phải phối hợp chém với nhau.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!
Ngọc Yến (thực hành)
Theo Ngọc Yến (thực hành)
Công an Nhân dân
0 nhận xét:
Đăng nhận xét